Ca trù là 1 thể loại ca nhạc dân gian thịnh hành và được công nhận và di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam. Ca trù còn được gọi chính là hát ả đào, hát cửa đình, hát cửa quyền, hát cô đầu, hát nhà tơ, hát nhà trò hoặc hát ca công. Ca trù được bắt nguồn từ dân ca, dân nhạc cùng 1 số trò diễn và múa dân gian. Chính vì vậy, ca trù chính là 1 bộ môn nghệ thuật tổng hợp với nét độc đáo là sự phối hợp đa dạng, tinh tế, nhuần nhuyễn xen lẫn thi ca và âm nhạc, đôi khi có cả múa. Trải qua quá trình phát triển thăng trầm cùng với các biến cố của lịch sử, cho tới nay, ca trù đã đạt đến một trình độ thẩm mỹ cao.
Ca trù – di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam
Ca trù thực chất là một từ chữ Nôm là loại hình diễn xướng bằng âm nhạc thính phòng rất được ưa chuộng tại bắc bộ và bắc trung bộ Việt Nam. Ngoài ra hình thức âm nhạc này còn được gọi với cái tên khác là hát cô dâu, hát nhà trò, rất được thịnh hành ở thế kỷ 15. Ca trù là một loại hình âm nhạc kinh điển, đỉnh cao của việc kết hợp thơ ca và âm nhạc
Một chầu hát cần có ba thành phần chính:
- Một nữ ca sĩ (gọi là “đào” hay “ca nương”) sử dụng bộ phách gõ lấy nhịp,
- Một nhạc công nam giới (gọi là “kép”) chơi đàn đáy phụ họa theo tiếng hát. Nhạc công đàn đáy có lúc hát thể cách hát sử và hát giai, vừa đàn vừa hát
- Người thưởng ngoạn (gọi là “quan viên”, thường là tác giả bài hát) đánh trống chầu chấm câu. Và biểu lộ chỗ đắc ý bằng tiếng trống.
Vì là nghệ thuật âm nhạc thính phòng, không gian trình diễn ca trù có phạm vi tương đối nhỏ. Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép và quan viên ngồi chếch sang hai bên. Khi bài hát được sáng tác và trình diễn ngay tại chỗ thì gọi là “tức tịch,” nghĩa là “ngay ở chiếu.”
Hát ca trù có 5 không gian trình diễn chính
Hát ca trù có 5 không gian trình diễn chính: hát cửa đình (hát thờ), hát cửa quyền (hát cung đình hay hát chúc hỗ). Hát tại gia (hát nhà tơ), hát thi và hát ca quán (hát chơi). Tham gia biểu diễn ca trù có ít nhất 3 người: một nữ ca sĩ gọi là “đào nương” hay “ca nương” hát theo lối nói. Và gõ phách lấy nhịp; một nam nhạc công gọi là “kép” đệm đàn đáy cho người hát; một người điểm trống chầu gọi là “quan viên”. Để trở thành một ca nương được mọi người công nhận, người nghệ sỹ phải trải qua quá trình học hỏi, luyện tập, trau dồi và vượt qua rất nhiều thử thách.
Nhiều người cho rằng hát ca trù là hát thơ. Với một hệ bài bản phong luật quy định cho từng lối hát. Lời lẽ, ca từ của ca trù mang tính uyên bác, ít lời mà nhiều nghĩa, giàu chất thơ. Mang nhiều cảm xúc, trầm ngâm, sâu lắng. Kỹ thuật hát rất tinh tế, công phu, đòi hỏi phải nắn nót. Chau chuốt từng chữ.
Hát ả đào có nhiều điệu hát
Ca trù có nhiều điệu hát, thể hát sử dụng các thể thơ quen thuộc và thuần Việt. Đặc biệt, thể hát nói (thơ 8 chữ) là thể thơ dành riêng cho ca trù. Hát nói là một sáng tạo độc đáo của ca trù. Bởi trong các làn điệu dân nhạc Việt Nam, chỉ có ca trù mới hình thành nên thể thơ này.
Trong hát nói, các yếu tố khuôn khổ, câu kết thúc. Cách tổ chức vần điệu được quy định rất chặt chẽ. Một bài hát nói không phụ thuộc vào bài nhạc nhất định. Nghệ nhân hát nói, khi biểu diễn, hoàn toàn chịu sự chi phối của lời thơ. Cùng với thơ, múa cũng là một trong những nhân tố quan trọng. Góp phần tạo nên nét đặc sắc, riêng biệt của nghệ thuật hát ca trù. Có nhiều điệu múa được sử dụng trong ca trù như: múa Bài Bông (thường được biểu diễn trong hát cửa đình); múa Đại Thạch (thường được biểu diễn trong hát thờ và hát thi), múa Bỏ Bộ và múa Tứ Linh (chỉ có trong hát thờ)…
Với giá trị văn hóa sâu sắc, ngày 1/10/2009; ca trù của Việt Nam đã chính thức được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.
Xem thêm những bài viết khác tại đây.